Thời hạn bảo hộ tác phẩm di cảo theo quy định mới nhất
Mục lục
Tác phẩm di cảo là loại hình tác phẩm khá đặc biệt, tuy nhiên đây vẫn là một trong những đối tượng của quyền tác giả. Thời hạn bảo hộ tác phẩm di cảo được pháp luật sở hữu trí tuệ hiện hành quy định và hướng dẫn chi tiết. Thông qua đó, tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan có thể sử dụng, khai thác tác phẩm đúng cách nhất.
Tác phẩm di cảo có đặc điểm như thế nào?
Tác phẩm di cảo được định nghĩa tại khoản 1 Điều 3 Nghị định 22/2018/NĐ-CP là tác phẩm được công bố lần đầu sau khi tác giả chết. Tác phẩm di cảo vẫn là một tài sản sở hữu trí tuệ được bảo hộ nếu đáp ứng được đủ các tiêu chí bảo hộ với một loại hình tác phẩm cụ thể.
Thời hạn bảo hộ tác phẩm di cảo là bao lâu?
Tác phẩm di cảo được công bố khi tác giả đã không còn nữa, tuy nhiên pháp luật vẫn quy định về thời gian bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm này.
Thời hạn bảo hộ tác phẩm di cảo đối với quyền nhân thân
Các quyền nhân thân: Đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả vẫn được bảo hộ vô thời hạn.
Thời hạn bảo hộ tác phẩm di cảo đối với quyền tài sản
Theo hướng dẫn tại Điều 24 Nghị định 22/2018/NĐ-CP: “… quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm di cảo là năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên.”
Như vậy, quyền tài sản đối với tác phẩm di cảo không cần phân biệt loại hình tác phẩm, đều được bảo hộ năm mươi năm tính từ khi tác phẩm được công bố.
Ai có quyền sử dụng tác phẩm di cảo trong thời gian được bảo hộ?
Với tác phẩm di cảo, chủ thể có khả năng trở thành chủ sở hữu quyền tác giả hợp pháp nhất chính là tổ chức, cá nhân thừa kế của tác giả. Tuy nhiên, tác phẩm di cảo vẫn có thể được sử dụng trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành:
“a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân;
b) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình;
c) Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;
d) Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại;
đ) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;
e) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;
g) Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy;
h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;
i) Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;
k) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.”