Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Mục lục
Hiện nay, vấn nạn vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đang diễn ra phổ biến, gây tổn hại tới lợi ích của chủ sở hữu. Để thực thi quy định của pháp luật, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, Nhà nước đã quy định các biện pháp để chủ sở hữu có quyền và lợi ích của mình cũng như sự can thiệp của cơ quan nhà nước. Để hiểu rõ hơn về chủ đề này, mời Quý vị cùng theo dõi bài viết dưới đây của Văn phòng đăng ký bản quyền.
1. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được hiểu sao cho đúng?
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tức là nhà nước và chủ thể quyền sở hữu trí tuệ sử dụng các phương thức pháp lý để bảo hộ đối tượng sở hữu trí tuệ thuộc sở hữu của mình, chống lại những hành vi xâm phạm để giữ nguyên vẹn quyền sở hữu các đối tượng này.
Chủ sở hữu có thể tự áp dụng các biện pháp bảo vệ hoặc bằng hoạt động của cơ quan nhà nước thông qua việc khởi kiện tại Tòa án, hoặc gửi đơn yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cụ thể nộp đơn yêu cầu tại các cơ quan sau:
- Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp: Thanh tra Khoa học và Công nghệ;
- Xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan: Thanh tra Văn hoá, Thể thao và Du lịch;
- Xâm phạm đối với giống cây trồng: Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
- Cảnh sát điều tra tội phạm, Quản lý thị trường, Hải quan…
2. Biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ do chủ thể sở hữu thực hiện?
Khi phát hiện ra hành vi xâm phạm, chủ sở hữu có quyền áp dụng các biện pháp sau đây để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình:
- Áp dụng phương pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm;
- Yêu cầu chủ thể có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;
- Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm;
- Nộp đơn khởi kiện ra Tòa án hoặc trọng tài có thẩm quyền để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
3. Biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ do cơ quan nhà nước thực hiện?
Bên cạnh biện pháp tự bảo vệ của chủ sở hữu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng sẽ thực hiện các biện pháp xử lý hành vi phạm. Cụ thể như sau:
Trường hợp 1: Xử lý dân sự
Khi có yêu cầu áp dụng biện pháp dân sự của chủ sở hữu hoặc tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra. Khi đó, Toà án áp dụng những biện pháp sau đây:
- Phái chấm dứt ngay hành vi vi phạm;
- Xin lỗi, cải chính công khai;
- Thực hiện nghĩa vụ dân sự;
- Bồi thường thiệt hại;
- Buộc phải tiêu huỷ hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích kinh doanh.
Trường hợp 2: Xử lý hành chính
Khi có yêu cầu xử lý hành chính từ chủ sở hữu, tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc chủ thể phát hiện ra hành vi xâm phạm. Những hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể là:
- Gây ra những thiệt hại cho tác giả hoặc chủ sở hữu hoặc người tiêu dùng hoặc cho xã hội;
- Vận chuyển, sản xuất, nhập khẩu, buôn bán hàng giả mạo hoặc giao cho người khác thực hiện;
- Vận chuyển, sản xuất, nhập khẩu, tàng trữ, buôn bán tem, nhãn hoặc sản phẩm khác mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý giả mạo hoặc giao cho người khác thực hiện.
Trường hợp 3: Xử lý hình sự
Khi hành vi vi phạm có đủ yếu tố cấu thành tội phạm, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về hành vi vi phạm
Thực hiện một trong những hành vi xâm phạm sau đây với lỗi cố ý:
- Sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình;
- Phân phối bản sao tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình đến công chúng;
- Xâm phạm nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ độc quyền tại Việt Nam.
Thứ hai, về hậu quả
Đối với bản quyền, quyền liên quan:
- Xâm phạm quy mô thương mại;
- Thu lợi bất chính với số tiền từ 50.000.000 đồng – dưới 300.000.000 đồng;
- Gây ra những thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng – dưới 500.000.000 đồng;
- Hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng – dưới 500.000.000 đồng.
Đối với chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu:
- Xâm phạm quy mô thương mại;
- Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng – dưới 300.000.000 đồng;
- Chủ sở hữu bị thiệt hại từ 200.000.000 đồng – dưới 500.000.000 đồng;
- Hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng – dưới 500.000.000 đồng.
Thứ ba, mối quan hệ giữa hành vi vi phạm và hậu quả vi phạm
Hành vi xâm vi bản quyền, quyền liên quan, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả cho tác giả, chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ.